Luận cứ bào chữa bị cáo Lê Văn Trang trong vụ đại án ở Bình Dương

       



ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT TNHH THUẬN THIÊN

                         ——–o0o——–

        LCBC – THUẬN THIÊN/2022

   

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

             Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                           ——–o0o——–

                  Hà Nội, ngày 15 – 30 tháng 08 năm 2022

                                                                                    BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA

                                                                                       BỊ CÁO LÊ VĂN TRANG

                           (Trong vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí” tại Bình Dương)

Kính thưa Hội Đồng Xét Xử!

Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát và Luật sư đồng nghiệp cùng các Quý vị có mặt trong phiên tòa hình sự sơ thẩm hôm nay!

Chúng tôi là Luật sư Đào Nguyễn Hương Duyên, Nguyễn Trung Tiệp thuộc Công ty Luật TNHH Thuận Thiên – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội. Nhận đơn mời luật sư của vợ bị cáo và được sự chấp thuận của TAND TP. Hà Nội. Chúng tôi tham gia phiên tòa hôm nay với tư cách là người bào chữa cho ông Lê Văn Trang bị VKSNDTC truy tố về tội danh: “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí” quy định tại khoản 3 Điều 219 BLHS năm 2015.

   Qua trao đổi làm việc với bị cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ án và phần thẩm vấn, xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay. Chúng tôi xin trình bày bản luận cứ bào chữa với những nội dung, quan điểm pháp lý như sau:


1- Về tội danh

Thứ nhất: về nguyên nhân, hoàn cảnh

Tỉnh Bình Dương triển khai dự án khu Liên Hợp trong tình hình ngân sách Nhà nước (NSNN) rất khó khăn, phải mời gọi nhà đầu tư cùng bỏ vốn vào để đền bù, giải phóng mặt bằng. Mặt khác, đây là dự án lớn mô hình thí điểm chưa có tiền lệ trong cả nước, thời điểm này các quy định về sử dụng đất còn chưa đồng bộ và nhiều bất cập. Cụ thể thời điểm năm 2006 (bàn giao mốc ranh khu dịch vụ) thì quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, quyết định giao đất, bàn giao đất hiệu lực năm 2006 căn cứ theo Điều 125.Điều 126, Điều 130 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, Khoản 11 Điều 2 NĐ số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 sửa đổi khoản 5 khoản 6 Điều 130 NĐ số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 quy định trình tự theo thời gian: Hoàn thành bồi thường, giải phóng mặt bằng, chuyển hồ sơ xác định và hoàn thành nộp tiền SDĐ, quyết định giao đất, Bàn giao đất trên thực địa. Quy định về giá đất tính thu tiền SDĐ năm 2006 Theo khoản 01 Điều 5 NĐ số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 sửa đổi khỏan 2 Điều 4 NĐ số 198/2004 NĐ-CP ngày 03/12/2004; Khoản 01 TT 70/2006TT-BTC ngày 02/08/2006 bổ sung điểm 3 Mục IV Phần A TT số 117/2004 TT-BTC ngày 07/12/2004 quy định giá đất tính thu tiền sử dụng đất là giá đất tại thời điểm giao đất do UBND tỉnh quy định vào ngày 01/01 hàng năm trường hợp giá đất do UBND tỉnh quy định chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì UBND quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp như vậy quy định về giá đất tính thu tiền SDĐ chỉ đề cập nội dung thời điểm giao đất không đề cập nội dung thời điểm có quyết định giao đất  trong khi trình tự theo thời gian quy định như sau: Hoàn thành bồi thường giải phóng mặt bằng, chuyển hồ sơ xác định và hoàn thành nộp tiền sử dụng đất, Quyết định giao đất, bàn giao đất trên thực địa như vậy giá đất tính thu tiền sử dụng đất là giá đất tại thời điểm giao đất  cũng chính là tại thời điểm hoàn thành bồi thường giải phóng mặt bằng. Đối với khu Dịch vụ của Công ty 3/2 Khu liên hợp có Qđ 164/2003/QĐ UB ngày 23/06/2003 phê duyệt phương án bồi thường giải phóng mặt bằng đến 2006 đã hoàn thành bồi thường trên 90% diện tích dự án chưa bồi thường dưới 10% diện tích khu liên hợp. Đối với khu dịch vụ tổng cty 3/2 đã ký HĐ 06/HD ngày 24/11/2004 đền bù đất và công trình tạo lực bàn giao trước ngày 30/12/2005. Năm 2005 Công ty ty đã thanh toán tiền đền bù gần 395 tỷ đồng, Biên bản bàn giao mốc ranh ký ngày 01/06/2006 giữa BQL khu liên hợp và Công ty 3/2. UBND tỉnh Ban hành QĐ 5853 để xác  định nghĩa vụ tài chính khi giao đất cho thuê đất đối với Công ty 3/2, Qđ định này xây dựng đơn giá bình quân trên cơ sở trên cơ cở bảng giá đất 2005 của UBND tỉnh mà không giới hạn thời gian giao đất thuê đất. UBND tỉnh ban hành QĐ 5584 ngày 28/12/2006 chấp thuận cho cty 3/2 tạm nộp nghĩa vụ tài chính. Từ các nội dung trên cho thấy khu dịch vụ tổng Công ty 3/2 có đủ điều kiện thực hiện nghĩa vụ tiền sử dụng đất năm 2006.

Để tháo gỡ khó khăn vướng mắc đảm bảo quyền lợi bình đẳng của các chủ đầu tư dự án UBND tỉnh đã ban hành CV 3400/UBND-SX ngày 01/12/2008 về việc xác định giá đất để thực hiện nghĩa vụ tài chính. 

Văn bản số 3444/UBND-KTN ngày 23/11/2012 kế thừa Văn bản  3400 ngày 01/12/2008 và VB 3133 ngày 16/10/2009 do đặc thù phức tạp của việc bồi thường giải phóng mặt bằng, ra QĐ giao đất, bàn giao đất, giá đất tính thu tiền sử dụng đất nhất là đối với các dự án lớn việc bồi thường giải phóng mật bằng diễn ra nhiều năm từ sự thay đổi chính sách và từ thực tế địa phương UBND ban hành tiếp 2 CV 658 ngày 15/3/2012 và CV 1379 ngày 24/5/2012 về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của KCN Đồng An 3 và KCN Kim Huy, Văn bản số 3444/UBND-KTN ngày 23/11/2012   qui định tiền chậm nộp đối với số tiền còn phải nộp vào NSNN tính từ thời điểm bàn giao đất thực tế đến thời điểm chính thức được thông báo nộp tiền vào NSNN theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 3 NĐ 120/2010-NĐ CP ngày 30/12/2010 là đúng với thực tế. Vậy tại sao đơn giá đất lại áp dụng theo Quyết định (QĐ) bàn giao đất? Trong khi thực tiễn tại tỉnh Bình Dương là bàn giao đất thực tế rồi áp đơn giá đất giao chủ đầu tư trả tiển bồi thường trước sau nhiều năm chủ đầu tư (CĐT) bồi thường toàn bộ mới được giao đất.Vấn đề giao đất trễ không phải do lỗi CĐT và còn tiền đền bù bồi thường CĐT bỏ ra từ trước thì áp dụng đơn giá đất theo QĐ bàn giao đất là bất hợp lý và không phù hợp với thực tiễn là Nhà nước đang kêu gọi đầu tư phát triển khu liên hiệp Công Nghiệp –DV –Đô thị BD là mô hình kiểu mẫu đầu tiên tại BD vào thời điểm đó cần nhanh chóng khuyến khích CĐT.

Tổng công ty 3/2 lúc đó là Doanh nghiệp (DN) 100% vốn của Đảng tham gia thực hiện phát triển các dự án về dịch vụ trong đó có 02 khu đất 43 ha và 145 ha ở khu liên hợp. Tháng 10/2005, Tổng công ty 3/2 đã chi trả tiền đền bù giải phóng mặt bằng, đầu tư công trình tạo lực cho BQL dự án khu liên hợp và BQL dự án khu liên hợp đã có Biên bản bàn giao mốc giới và ranh giới ngoài thực địa cho Tổng công ty 3/2 vào ngày 01/06/2006. Tọa độ các mốc giới đã được xây dựng trên bản đồ địa chính và bản đồ hiện trạng.Tuy nhiên, trên thực tế đã bàn giao cả phần diện tích chưa giải phóng mặt bằng nằm rải rác trong khu đất đã bàn giao nên việc lập thủ tục quyết định giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho công ty 3/2 đến năm 2012 mới thực hiện được.Căn cứ vào chủ trương nhất quán xuyên suốt của Ban thường vụ tỉnh ủy,UBND tỉnh qua các nhiệm kỳ và cam kết của tỉnh đối với nhà đầu tư về bàn giao đất và nghĩa vụ tài chính về đất khi giao đất cho các nhà đầu tư trong khu liên hợp.Trong phần xét hỏi công khai tại tòa Ông Nam cũng trình bày điều kiện của tỉnh Bình Dương (BD) lúc đó hết sức khó khăn nên để thu hút nhà đầu tư UBND tỉnh đã phải thông báo trước giá SDĐ để nhà đầu tư yên tâm bỏ tiền ra đền bù vì vậy áp dụng đơn giá theo QĐ 5853 là phù hợp vì QĐ này là QĐ đặc thù chỉ áp dụng cho khu dịch vụ đô thị BD. Phó CT UBND tỉnh Bình Dương là ông Trần văn Nam đã ký CV 3444 chấp thuận đơn giá đất để xác định tiền sử dụng đất trong khu dịch vụ trong khu liên hợp do Tổng công ty 3/2 làm chủ đầu tư theo đơn giá bình quân là 51.914 đồng/m2 được UBND tỉnh phê duyệt tại QĐ số 5853 ngày 27/12/2006. Cần nhắc lại giá đất này chỉ dùng để tính nghĩa vụ tài chính đối với phần diện tích đất dịch vụ trong khu liên hợp giao cho Tổng công ty 3/2 không áp dụng cho các khu đất khác trong khu liên hợp; mặt khác giá đất này cũng không thấp hơn so với bảng giá đất do UBND tỉnh ban hành cùng thời điểm, sát với giá thị trường thời điểm đó nên Cục Thuế có trình ký CV số 11906 đề xuất tính theo mức giá này. Cách làm này đảm bảo tính công bằng khách quan giữa các chủ đầu tư, không làm phát sinh những ảnh hưởng tiêu cực ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của tỉnh.

 CV số 11906 đề xuất tính theo mức giá 51.914 đồng/m2 không phải là đề xuất mới mà là kiến nghị áp dụng tiếp tục theo CV 3400 /UBND/SX ngày 01/12/2008, CV 3133 /UBND-KTN ngày 16/10/2009 đã được UBND tỉnh ban hành thực hiện chủ trương khuyến khích đầu tư, phù hợp với tình hình thực tiễn khách quan trong quá trình triển khai dự án khu liên hợp và đúng qui định pháp luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, quyết định giao đất, bàn giao đất hiệu lực 2012 vẫn theo Điêu 27, Điều 31 NĐ 69 ngày 13/8/2009 trong đó trình tự theo thời gian qui định: Quyết định thu hồi đất và giao đất trong cùng 1 QĐ, bàn giao phần diện tích mặt bằng đã thực hiện xong việc bồi thường, hỗ trợ để triển khai dự án, Thực hiện nộp tiền sử dụng đất. Quy định về giá đất thu tiền sử dụng đất năm 2012 theo Khoản 1 Điều 2 NĐ số 120 ngày 30/12/2010 sửa đổi bổ sung Khoản 2 Điều 4 NĐ 198 ngày 03/12/2004 của Chính Phủ và Khoản 1 Điều 1 Thông tư 93 ngày 29/6/2011 sửa đổi bổ sung Mục IV phần A TT 117 ngày 17/12/2004 của Bộ Tài Chính.

Thứ hai: về chủ thể

 Tại thông báo số 4074/CT-PCCB ngày 06/05/2010  bút lục (Bl) 2910, thông báo số 2267/TB – CT ngày 21/03/2011 (Bl 2911) và thông báo số 9711/TB – CT ngày 05/09/2014 (Bl 012912)  thông báo về việc phân công theo dõi và chỉ đạo công tác của Ban lãnh đạo Cục Thuế thì ông Lê Văn Trang là Cục trưởng Cục Thuế có trách nhiệm chỉ đạo điều hành chung các mặt công tác của văn phòng Cục Thuế và toàn ngành Thuế, trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo các mặt công tác của Phòng tổ chức cán bộ, Phòng Tổng Hợp- Nghiệp vụ- Dự toán, Phòng kiểm tra nội bộ, các chi Cục Thuế Thuận an, TX Thủ Dầu Một.Theo phân công cán bộ lãnh đạo nêu trên thì ông Trang không có trách nhiệm trực tiếp trong việc theo dõi chính sách thuế liên quan lĩnh vực đất đai.Trường hợp này ông Trang chỉ liên đới chịu trách nhiệm chung do nắm giữ vai trò lãnh đạo chung toàn cơ quan thuế.

Thứ ba: về khách thể

Cáo trạng nêu hành vi của bị cáo gây thất thoát cho Nhà nước số tiền: 761.078.561.949 đồng trong khi đó ngày 26/7/2011 Kiểm toán NN có CV số 163/KTNN không kiến nghị truy thu tiền sử dụng đất, ngày 15/8/2017, Kiểm toán NN có CV số 346/KTNN về kết quả kiểm toán việc quản lý và sử dụng đất đô thị trên địa bàn tỉnh BD trong đó chỉ kiến nghị tiền sử dụng đất phải nộp tăng thêm theo tiến độ giải phóng mặt bằng từng năm, Kiểm toán NN không có kiến nghị vế đơn giá và thời điểm tính tiền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích đất đã bàn giao cho Cty 3/2. Kiểm toán NN căn cứ qui định PL tại điểm 1.1 khoản 1 Điều 1 thông tư 93 ngày 29/6/2011 của Bộ Tài Chính xác định lại tiền sử dụng đất phải nộp tăng thêm theo tiến độ giải phóng mặt bằng từng năm là 200.979.025.683 đồng theo CV5571 ngày 13/11/2020 về việc nộp tiền sử dụng đất bổ sung theo yêu cầu của KTNN (Bl 6647) và Cty 3/2 đã nộp đủ số tiền này vào NSNN ngày 03/03/2021. Như vậy vấn đề xác định nghĩa vụ tài chính đã được xử lý xong và thực tế không có thiệt hại xảy ra vào thời điểm khởi tố ông Lê Văn Trang. Thực tế không làm thất thoát tài sản nhà nước mà chỉ làm chậm các khoản thu của NSNN, tuy nhiên thiệt hại đã được khắc phục.

    Thứ tư: về mặt chủ quan

 Bản khai ngày 14/11/2020 của Ông Nguyễn Thanh Trúc – BL 6675 thì UBND tỉnh BD có qui trình giải quyết xét duyệt Công văn rất rõ ràng, trong phần xét hỏi công khai tại tòa Ông Trúc vẫn xác định lời khai trong bản cung này là đúng và không thay đổi lời khai, cụ thể: “Bộ phận một cửa VP UBND tỉnh BD tiếp nhận văn bản 11906/CT-QLCKTTD ngày 16/11/2012 do Cục Thuế Tỉnh Bình Dương chuyển đến, văn bản sẽ được chuyển đến Ông Đoàn Văn Thành –Trưởng phòng Hành chính tổ chức VP UBND tỉnh, ông Thành phê duyệt chuyển cho ông Trần Xuân Lâm, trưởng phòng Kinh tế ngành giải quyết. Ông Lâm đã kiểm tra hồ sơ tài liệu và soạn thảo văn bản số 3444/UBND-KTN ngày 23/11/2012 thể hiện Chủ tịch UBND tỉnh BD có ý kiến chấp thuận đơn giá đất 51.914 đồng/m2 cho khu đất dịch vụ do Tổng Cty SX –XNK Bình Dương làm chủ đầu tư trong khu LH Công Nghiệp – DV- Đô thị BD, sau khi khấu trừ  tiên bồi thường theo qui định nếu phát sinh số phải nộp thì phải nộp thêm số tiền chậm nộp đối với số tiền còn phải nộp vào NSNN tính từ thời điểm bàn giao đất thực tế đến thời điểm chính thức được thông báo nộp tiền vào NSNN theo qui định tại điểm c Khoản 2 Điều 3 NĐ 120/2010-NĐ CP ngày 30/12/2010 rồi trình cho ông Võ văn Lượng – Phó chánh VP UBND tỉnh, phụ trách phòng kinh tế ngành xem xét rà soát sau đó trình cho ông Trúc – Chánh VP UBND tỉnh để kiểm tra nội dung và trình ông Trần Văn Nam – Phó CT UBND tỉnh – phụ trách lĩnh vực đất đai ký ban hành theo thẩm quyền được phân công trong lãnh đạo UBND tỉnh”.

Theo qui trình trên thì rõ ràng ông Lê Văn Trang có muốn cố ý làm trái quy định nhà nước cũng không thể vượt qua được hàng rào kiểm soát của UBND tỉnh. Điều này phản ánh về nhận thức và về điều kiện đặc thù của tỉnh Bình Dương kết hợp với các tiền lệ thì các ông đều nhận thức việc áp dụng đơn giá khu 43 ha theo biên bản bàn giao đất thực tế là đúng  cho thấy ông Trang không cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong khi theo quy định thì để truy tố ông Trang theo Điều 219 BLHS 2015 yêu cầu bị can phải thực hiện hành vi với lỗi cố ý.

Bản thân ông Trúc cũng chỉ nhận thức được việc trình VB 3444/UBND-KTN ngày 23/11/2012 cho Ông Nam ký là sai sau khi được CQĐT giải thích về các quy định của pháp luật có liên quan, Bl 6675 ngày 14/11/2020 và Bl 6678 ngày 12/03/2021 đều xác định như vậy. Trong phần xét hỏi công khai tại tòa Ông Lâm cũng xác định bản thân chỉ biết sai khi làm việc với CQĐT chứ vào thời điểm đó thì ông vẫn nhận thấy trường hợp này áp dụng QĐ 5853 để tính giá SDĐ là có cơ sở pháp lý.

CV 11906 cũng chỉ là văn bản báo cáo đề xuất, xin ý kiến của UBND tỉnh chứ chưa phải là văn bản quyết định để tính đơn giá đất. Trong phần xét hỏi công khai tại tòa Ông Trang cũng đã trả lời “CV 11906 không thể là căn cứ áp dụng để tính giá SDĐ mà QĐ 3444 mới là văn bản có giá trị pháp lý dùng để tính giá SDĐ và thẩm quyền ban hành quyết định này thuộc UBND tỉnh”.

 Tại tòa Ông Nam cũng xác định: “CV 11906 chỉ hỏi về giá SDĐ cho khu 43 ha và văn bản 3444 cũng chỉ trả lời cho giá SDĐ của khu này Ông Nam là người ký QĐ này nên nếu sai thì ông chịu trách nhiệm không đùn đẩy trách nhiệm cho anh em. Ông Nam xác định ông ký QĐ 3444 để tính giá SDĐ cho khu này 51.914 đồng/m2 vì khu 43 ha đã được giao đất từ 2005 và toàn bộ là đất dịch vụ”.

  Như vậy, ông Trang tuy là lãnh đạo Cục thuế nhưng cũng không phụ trách quản lý đất đai mà trách nhiệm quản lý các khoản thu từ đất cũng đã được phân công cụ thể rõ ràng trong các thông báo đã nêu ở phần chủ thể và trong cuộc họp ngày 13/11/2012 thì Phòng quản lý các khoản thu từ đất (QLCKTTĐ) cũng chỉ hỏi về khu 43 ha và ông có ý kiến là giao Phòng QLCKTTĐ tham mưu làm CV đề xuất cho khu 43 ha, sau đó thì Phòng QLCKTTĐ và Phó CT quản lý đất đai theo phân công nhiệm vụ tự quản lý điều hành mà không báo cáo hay xin ý kiến Cục trưởng về khu 43 ha nên nếu có sai thì ông Trang cũng chỉ liên đới chịu trách nhiệm đối với khu 43 ha.

Lý do Phòng QLCKTTĐ đề xuất vì trường hợp giao đất của tổng cty 3/2 tương tự như giao đất đợt 3 KCN Đồng An 2 và đợt 3 KCN Kim Huy đã được UBND tỉnh phê duyệt giá đất để tính tiền sử dụng đất tại VB 658/UBND-KTN ngày 15/03/2012 và VB số 1379/UBND-KTN ngày 24/05/2012; do việc chậm giao đất không phải là lỗi của chủ đầu tư. Nếu áp dụng không thống nhất đơn giá đất thì chắc chắn sẽ dẫn đến khiếu nại của chủ đầu tư. Cụ thể:  Khi đoàn thanh tra chính phủ có kết luận thanh tra số 2623/KL-TTCP ngày 26/11/2008 và theo QĐ 427/QĐ-TTCP ngày 20/03/2008 Cục Thuế tỉnh BD đã làm việc với 04 CĐT trong khu liên hợp gồm Cty CP An Hòa- CĐT KCN Đồng An 2; Cty truyền thông Trí Việt; Cty TNHH Kim Huy- CĐT KCN Kim Huy; Cty TNHH Phú Gia – CĐT KCN Phú Gia để thu nộp số tiền sử dụng đất chêch lệch do tính lại là 8.298.142.075 đồng vào tài khoản tạm giữ của CQ Thanh tra CP, tuy nhiên hầu hết các CĐT trong khu liên hợp đều làm văn bản đề nghị không phải nộp số tiền sử dụng đất chêch lệch do tính lại, với các lý do:

1/ Các CĐT trong khu liên hợp đã hoàn tất việc thanh toán tiền đền bù đất và các CT tạo lực cho chủ đầu tư dự án khu liên hợp (Cty Becamex) từ 2004-2006; đồng thời chủ đầu tư dự án khu liên hợp (Cty Becamex) đã tiến hành bàn giao đất thực tế cho Các CĐT trong khu liên hợp tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng theo đúng qui hoạch chung đã được phê duyệt

2/ Do có khó khăn vướng mắc trong việc đền bù giải tỏa và phần thủ tục hành chính do các phần diện tích chưa được bàn giao nên đến năm 2007 mới có QĐ bàn giao đất của UBND tỉnh Bình Dương

3/ Khi đầu tư cho dự án Các CĐT trong khu liên hợp đã đề nghiị UBND tỉnh xác định, phê duyệt cụ thể đơn giá đất, số tiền sử dụng đất phải nộp cho các dự án này. Các CĐT trong khu liên hợp đã lập dự toán đầu tư, cân đối tài chính từ những năm 2006, 2007 và đã nộp đầy đủ NSNN theo qui định, Các CĐT trong khu liên hợp sẽ gặp khó khăn về tài chính khi nhà nước yêu cầu nộp số tiền sử dụng đất chêch lệch do tính lại, Các CĐT trong khu liên hợp cần sự hỗ trợ của nhà nước trong tình hình kinh tê khó khăn

Sau khi làm việc với 04 CĐT thì Cục Thuế BD có văn bản số 5873 ngày 8/8/2008 để báo cáo Đoàn Thanh Tra Chính Phủ thì ngày 26/11/2008 Tổng thanh tra CP ký QĐ số 2622/QĐTT-CP thu duy nhất Cty Cty CP truyền thông Trí Việt do có vi phạm pháp luật về tài chính đất đai  còn các trường hợp còn lại đều không thu tiền sử dụng đất chêch lệch do tính lại, Điều này cho thấy qua các cuộc kiểm tra Thanh tra CP, kiểm toán NN vẫn thừa nhận một thực tế ở BD và đã tạo thành tiền lệ khiến cho CQ Thuế, Phòng QLCKTTĐ và UBND tỉnh hiểu rằng trường hợp của Cty XNK Bình Dương cũng áp dụng tương tự.

Trong phần xét hỏi công khai tại tòa Ông Minh và ông Nam đều trả lời:

“Thời điểm này thì việc áp giá SDĐ sẽ theo quyết định của tòa tuy nhiên nếu vào thời điểm đó thì khi thông báo áp giá SDĐ theo QĐ bàn giao đất năm 2012 chắc chắn Cty 3/2 sẽ không đồng ý và khiếu nại bởi vì quá bất hợp lý trong khi nhà đầu tư đã bỏ tiền đền bù từ 2005, 2006 và đã được giao đất thực tế nhưng vì lỗi hành chính chậm chạp trong việc đền bù nên ban hành QĐ giao đất cho nhà đầu tư trễ sau đó lại áp dụng QĐPL là thông tư 117 để tính giá SDĐ năm 2012 là không công bằng, không phù hợp với thực tiễn tại tỉnh BD và điều này theo Ông Nam nói chung là có ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của tỉnh nếu cương quyết áp dụng rập khuôn máy móc QĐPL mà không nhìn nhận thực tiễn để áp dụng linh hoạt có tình có lý”. 

–  Lời khai của các ông Võ Văn Lượng (Bl 6671 ngày 02/07/2021), ông Trần Xuân Lâm – (Bl 6685 ngày 07/11/2020) cùng Nguyễn Thái Thanh, Võ Thanh Bình, Lê Văn Trang là phù hợp với nhau, phản ánh việc họ chỉ nhận thức được sai sau khi làm việc với CQĐT và được giải thích vè pháp luật.

Như vậy, tại cuộc họp ngày 13/11/2012, ông Trang chỉ được nghe báo cáo từ ông Nguyễn Thái Thanh – phó phòng quản lý các khoản thu từ đất và ông Võ Thanh Bình là phó Cục trưởng báo cáo vể việc Công ty SX –XNK Bình Dương được giao mốc ranh 2006 và việc áp dụng QĐ 5853 là phù hợp nên ông Trang có sơ suất là không kiểm tra văn bản pháp luật mà đã có kết luận ngay tại cuộc họp đồng ý làm văn bản xin ý kiến UBND tỉnh áp giá 51.914 đồng/m2. Tuy nhiên, VB 11906 cũng chỉ là công văn xin ý kiến còn chờ sự chấp thuận của UBND tỉnh. Vì vậy,  đây không phải là lỗi cố ý. Đồng thời, thể hiện việc ông Trang đồng thuận ý kiến đề xuất của cấp dưới là do tin tưởng vào khả năng chuyên môn của cán bộ và lãnh đạo được phân công quản lý các khoản thu từ đất. Ngoài ra còn vì các lý do được báo cáo như sau:

1/ Trong phiếu chuyển thông tin địa chính số 601/PC-VPDK QSDĐ ngày 22/10/2012 của VPDK QSDĐ, Sở Tài Nguyên Môi Trường để xác định nghĩa vụ tài chính đối với Cty SX –XNK Bình Dương trong đó có QĐ 5853 giá tính tiền sử dụng đất 51.914 đồng/m2 đã được UBND tỉnh phê duyệt. Trong phần xét hỏi công khai tại tòa ông Lâm cũng xác định: “ông là người có trách nhiệm rà soát các qui định pháp luật trước khi soạn thảo CV 3444 nhưng thấy hồ sơ chuyển của Sở Tài Nguyên Môi Trường và CV 11906 của Cục thuế đề xuất là có cơ sở pháp lý, vào thời điểm đó ai cũng nhận thức áp dụng QĐ 5853 là đúng chứ không ai biết sai mà vẫn làm”.

Điều này càng khẳng định về mặt ý thức chủ quan là các bị cáo hiểu sai chứ không phải cố ý làm sai hay nói cách khác đây là lỗi chính sách có quá nhiều quy định về cùng 01 vấn đề nên dẫn đến chồng chéo và hiểu nhầm là bình thường là 01 thức lỗi vô ý, sai lầm trong nhận thức.

2/ Hợp đồng đền bù mặt bằng đất đai và đầu tư công trình tạo lực số 06 ngày 24/11/2004 qui định ban quản lý khu liên hợp phải bàn giao toàn bộ diện tích mặt bằng trước ngày 30/12/2005 

3/ Tổng cty 3/2 đã cung cấp biên bản bàn giao mốc ranh ngày 01/06/2006

4/ Tổng cty 3/2 đã nộp tiền giải phóng mặt bằng cho khu liên hợp

5/ Việc chậm bàn giao đất không phải lỗi của nhà đầu tư mà có nguyên nhân xuất phát từ các cấp chính quyền

6/ Bản thân ông Trang suy nghĩ việc đồng thuận trong cuộc họp ngày13/11/2012 để ông Bình ký VB 11906 trình UBND tỉnh chưa phải là quyết định cuối cùng mà đây chỉ là VB xin ý kiến nếu các cơ quan chuyên môn trực tiếp là Sở TN và MT, Sở Tài chính khi phát hiện ra sai sót sẽ báo cho UBND tỉnh, hơn nữa UBND tỉnh cũng có qui trình kiểm soát xét duyệt ký ban hành quyết định rất rõ ràng cụ thể nên ông Trang không xem xét rà soát văn bản pháp luật cẩn thận.Vì suy nghĩ như vậy nên VB 11906 không những trình UBND tỉnh mà còn gửi cho cơ quan chuyên môn trực tiếp là Sở TN và MT, Sở Tài chính để các CQ này xem xét và có ý kiến với UBND tỉnh nếu phát hiện nội dung VB 11906 không phù hợp với quy định pháp luật.

Ông Võ Thanh Bình cho biết được ông Thanh báo cáo tại cuộc họp ngày 13/11/2012 trường hợp Cty SX –XNK Bình Dương tương tự như trường hợp giao đất đợt 3 KCN Đồng An 2. Vấn đề này đã được Cục thuế, Sở TN và MT, Sở Tài chính họp và thống nhất cùng ký văn bản 613/CVLN/TNMT-TC-T ngày 08/03/2012 báo cáo UBND tỉnh và đợt 3 KCN Kim huy, Khu liên hợp do BQL khu liên hơp sau đó chuyển giao cho Tổng cty đầu tư và PT công nghiệp –TNHH MTV thay mặt UBND tỉnh đền bù để có quỹ đất sạch giao cho Doanh nghiệp. Do chậm tiến độ bồi thường, thời gian bồi thường kéo dài nên UBND tỉnh giao đất cho Cty SX –XNK Bình Dương theo nhiều đợt trong khi tiền bồi thường và xây dựng hạ tầng cty đã nộp đủ điều này cho thấy việc chậm bàn giao đất không phải lỗi do nhà đầu tư và đồng thời UBND tỉnh đã phê duyệt VB 658/UBND-KTN ngày 15/03/2012 và VB 1379/UBND-KTN ngày 24/05/2012 phê duyệt đơn giá đất cho KCN Đồng an 2 và KCN Kim Huy.

Trong khi đó yếu tồ lỗi được qui định trong Điều 219 phải là lỗi cố ý tức là: người thực hiện hành vi vi phạm, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Thông thường người phạm tội này vì vụ lợi.

Ông Lê Văn Trang ký CV này hoàn toàn không vụ lợi mà chỉ ký theo chức năng nhiệm vụ được giao với mong muốn giải quyết nhanh hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính, đảm bảo nguồn thu ngân sách và góp phần xây dựng thành công khu liên hợp là mô hình kinh tế thí điểm của tỉnh, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. 

Qua các minh chứng trên cho thấy lỗi của 3 bị cáo Trang, Bình, Thanh đều thuộc lỗi vô ý. 

Thứ năm: về mặt khách quan

Ngoài ra vấn đề giao đất 2012 mà áp dụng giá đất 2006 cũng đã được Thanh tra Chính phủ và kiểm toán Nhà nước kiểm tra và chấp nhận, cụ thề tại trang 7 kết luận thanh tra số 1249/KLTT CP ngày 30/05/2014 Thanh tra chính phủ đã nêu kết luận về kết quả kiểm tra tài chính của các dự án đầu tư. Lấy thời điểm xác định ranh giới bàn giao đất ngoài thực địa làm thời điểm xác định nghĩa vụ tài chính phải nộp đối với các dự án đầu tư lớn, thời gian bồi thường giải phóng mặt bằng kéo dài qua nhiều năm, nhiều thời kỳ (CV 3400 /UBND/SX ngày 01/12/2008), qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, đồng thời cũng phù hợp tình hình thực tế công tác bồi thường giải phóng mặt bằng của địa phương Bình Dương; đến năm 2011 việc xác định thời điểm bàn giao đất đã giải phóng mặt bằng bàn giao ngoài thực địa là thời điểm bàn giao đất thực tế và cũng là thời điểm xác định nghĩa vụ tài chính về đất đã được khẳng định tại điểm b mục 1.1 khoản 1 Điều 1 thông tư số 93//2011/TT BTC.. Với những cơ chế chính sách thông thoáng, năng động trên các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tài chính đất đai, tỉnh Bình Dương đã huy động có hiệu quả nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương qua đó đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước.

Cục Thuế tỉnh Bình Dương nhận được phiếu chuyển số 601 ngày 22/10/2012 của VP đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở TNMT tỉnh Bình Dương với nội dung đề nghị xác định nghĩa vụ tài chính với lô đất 43 ha Cục Thuế tỉnh Bình Dương ký văn bản đề xuất 11906/CT-QLCKTTD ngày 16/11/2012 chuyển đến UBND tỉnh Bình Dương đề nghị chấp nhập áp dụng đơn giá đất bình quân năm 2006 theo QĐ số 5853/QĐ –UBND ngày 27/12/2006.

Theo quy trình thì khi Cục Thuế tỉnh Bình Dương ký văn bản đề xuất 11906/CT-QLCKTTD ngày 16/11/2012 chuyển đến UBND tỉnh Bình Dương đề nghị chấp nhận áp dụng đơn giá đất bình quân năm 2006 theo QĐ số 5853/QĐ –UBND ngày 27/12/2006 thì Ông Đoàn văn Thành –Trưởng phòng hành chính tổ chức VP UBND Tỉnh là người tiếp nhận và phê duyệt chuyển cho ông Trần xuân Lâm – Trưởng phòng kinh tế ngành giải quyết theo thẩm quyền, ông Trần xuân Lâm kiểm tra hồ sơ tài liệu dự thảo bằng văn bản số 3444/UBND-KTN ngày 23/11/2012 thể hiện CT UBND tỉnh Bình Dương có ý kiến chấp thuận đơn  giá đất để xác định tiền sử dụng đất cho khu đất dịch vụ do Tổng Cty SX –XNK Bình Dương làm chủ đầu tư trong khu Liên hiệp Công Nghiệp –DV –Đô thị Bình Dương với đơn giá 51.914 đồng/m2. Sau khi khấu trừ tiên bồi thường theo qui định nếu phát sinh số phải nộp thì phải nộp thêm số tiền chậm nộp đối với số tiền còn phải nộp vào NSNN tính từ thời điểm bàn giao đất thực tế đến thời điểm chính thức được thông báo nộp tiền vào NSNN theo qui định tại điểm c Khoản 2 Điều 3 NĐ 120/2010-NĐ CP ngày 30/12/2010 sau đó trình ông Võ Văn Lượng Phó Chánh VP UBND tỉnh xem xét để kiểm tra rồi chuyển đến ông Trúc ký nháy rồi trình cho Ông Nam ký phê duyệt (Bản khai của ông Trúc ngày 20/11/2021).

Như vậy, cho dù Cục Thuế tỉnh Bình Dương ký văn bản đề xuất 11906/CT-QLCKTTD ngày 16/11/2012 cũng phù hợp với nội dung chỉ đạo của UBND tỉnh tại công văn số 3133/UBND-KTN ngày 16/10/2019 chuyển đến UBND tỉnh Bình Dương thì trách nhiệm ký phê duyệt là thuộc vế UBND tỉnh Bình Dương.

2- Về quy định pháp luật

Căn cứ vào thời điểm xảy ra vụ án là vào năm 2012 và quyết định khởi tố vụ án hình sự số 02/PC03 ngày 16/12/2019 của CQCSĐT Công an tỉnh Bình Dương về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí” quy định tại Điều 219 BLHS. Như vậy, tại thời điểm xảy ra vụ án, BLHS năm 2015 chưa có hiệu lực. Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc thi hành BLHS năm 2015 quy định về hình phạt nhẹ hơn, tội phạm mới thì được áp dụng đối với tất cả những hành vi phạm tội xảy ra trước ngày 01/01/2018 và Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015 quy định: “3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.

Do đó, việc áp dụng BLHS năm 2015 để truy tố các bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, chúng tôi không thống nhất quan điểm với VKS về việc áp dụng Điều 219 BLHS năm 2015 đối với hành vi của ông Trang. Chúng tôi cho rằng hành vi của bị cáo Trang đủ yếu tố cấu thành tội danh quy định tại Điều 179 BLHS 2015: “Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” mới đúng bởi các lý do sau đây: Hành vi của ông Trang thể hiện sự thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 6 Luật Quản lý sử dụng tài sản Nhà nước năm 2008.

Kết luận: Qua những phân tích về yếu tố cấu thành tội phạm và quy định pháp luật như trên cho thấy: việc VKSNDTC truy tố ông Lê Văn Trang theo Điều 219 BLHS là không đúng người đúng tội, có dấu hiệu định tội danh sai. Vì mặt chủ quan của ông Trang chỉ là lỗi vô ý thể hiện sự thiếu trách nhiệm không kiểm tra lại thực tế và quy định pháp luật. Hơn nữa, ông không có động cơ vụ lợi, không làm thất thoát tài sản nhà nước mà việc thu không đúng giá SDĐ chỉ làm chậm các khoản thu của ngân sách Nhà nước, cần phân biệt rõ 2 khái niệm thất thu và thất thoát như sau:

+ Thất thoát là mất đi mà không thu lại được không khắc phục được, trong khi thất thu chỉ là tạm thời chưa thu và có thể thu bổ sung thậm chí thu cả phần tiền chậm nộp. Thực tế Cty 3/2 đã nộp được hơn 200 tỷ và 145 tỷ tiền chậm nộp, cáo trạng cũng thừa nhận đã khắc phục 01 phần.

Chúng tôi cho rằng thiệt hại nếu có đã được khắc phục vì ông Trang chỉ chịu trách nhiệm khi có ý kiến với khu 43 ha với số tiền phải nộp thêm là 108.486.474.493 đồng chứ không thể chịu trách nhiệm luôn với khu đất 145 ha với số tiền phải nộp thêm là: 667.540.543.682 đồng. Hơn nữa, tại phần xét hỏi tại tòa thì đại diện Cty Tân Thành cũng đồng ý trả lại đất cho chủ sở hữu là thường trực tỉnh ủy, đại diện Cty Kim Oanh cũng đồng ý sẽ nộp thêm tiền sử dụng đất để tiếp tục thực hiện dự án. Cần lưu ý tài sản ở đây là đất đai nên thực tế không có thất thoát tài sản mà chỉ thiệt hại tạm thời do chưa thu đúng cho NSNN.

Mặt khác, Công ty 3/2 là DNNN làm chủ sở hữu theo CV 490 tỉnh ủy BD xác nhận Cty 3/2 không có vốn NSNN, nguồn vốn của DN chủ yếu là vốn vay. Như vậy thì nếu thu đúng theo Thông tư  117,  doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) phải nộp NSNN nhiều hơn và việc thiếu vốn đi vay cũng phải do DNNN chịu lãi suất ngân hàng. Do đó, phần thiệt hại do chậm thu NSNN chắc chắn nhỏ hơn lãi suất DNNN đi vay vốn Ngân hàng và giá trị tài sản là đất đai khi các DN trả lại đất cho Chủ sở hữu (CSH) định giá lại thì tài sản lại tăng thêm giá trị hay nói cách khác là không có thiệt hại.Tại phiên tòa ngày 19/08/2022 thì đại diện CSH là tỉnh ủy BD cũng xác nhận có ý kiến cho rằng không có thất thoát vì đây là DN Đảng và NN thì nộp NSNN nhiều hay ít đi cũng chỉ là chuyển từ A sang B mà A và B ở đây chỉ là 01 chủ thể là NN.

Bên cạnh đó, theo điểm đ khoản 1 điều 37 Luật NSNN thì tiền thu từ SDĐ là nguồn tiền thuộc ngân sách (NS) địa phương được hưởng 100% nên không làm ảnh hưởng nguồn thu NS Trung ương. Trong khi đó qui định tại Khoản 3 Điều 219 là hành vi phải gây thất thoát tài sản nhà nước từ 1 tỷ đồng trở lên. Bởi thế, hành vi của ông Trang không tương thích với cấu thành tội này. Hành vi sai phạm của ông Trang, chúng tôi cho rằng có dấu hiệu của “Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” quy định tại Điều 179 BLHS năm 2015.

3- Về đồng phạm

Chúng tôi cho rằng trong vụ án này có 28 bị cáo, trong đó có 25 bị cáo truy tố về tội danh theo khoản 3 Điều 219 BLHS. Liên quan đến sai phạm của văn bản 11906 và 3444 có 6 bị cáo. Trong đó có 3 cán bộ Cục thuế, 03 cán bộ VP UBND tỉnh Bình Dương. Bởi vậy, chúng tôi nhận thấy cần phải cá thể hóa, phân hóa TNHS để làm rõ vai trò từng người. Căn cứ vào khoản 4 Điều 17 BLHS năm 2015 quy định về đồng phạm và mục 4 công văn số 01/2017/GĐ- TANDTC ngày 07/04/2017 của TANDTC hướng dẫn thì hành vi của ông Lê Văn Trang chỉ là người có vai trò giúp sức, vị trí thứ yếu không đáng kể trong vụ án khi đưa ra kết luận đồng thuận với cấp dưới về việc ban hành văn bản 11906 để đề xuất, tham mưu cho UBND tỉnh trong việc áp dụng giá đất đối với khu 43 ha của TCT 3/2. Cho nên, đề nghị mức án của VKSNDTC với ông Trang từ 8-9 năm tù là quá nặng nề, nghiêm khắc đang có tính quy buộc về trách nhiệm ông Trang là lãnh đạo, người đứng đầu Cục thuế, nên không phù hợp với sự thật khách quan, tính chất hành vi của bị cáo.

4- Về tình tiết giảm nhẹ

Một là: Quá trình công tác bị can Lê Văn Trang có nhiều thành tích được các cấp tặng thưởng nhiều giấy khen, bằng khen. Được Ban chấp hành Trung ương Đảng tặng thưởng huy hiệu 30 tuổi Đảng. Được tặng thưởng huân chương lao động hạng ba năm 2003, huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng 3 năm 1980, kỷ niệm chương vì sự nghiệp tài chính Việt Nam năm 2007. Đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, bị cáo Trang thành khẩn khai báo; một phần số tiền thất thoát từ hành vi áp đơn giá đất sai quy định đã được khắc phục là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s,  khoản 1 Điều 51 BLHS 2015

Hai là: Về nhân thân và hoàn cảnh gia đình

Bị cáo Lê Văn Trang chưa có tiền án tiền sự, phạm tội thuộc trường hợp lần đầu. Ông từng tham gia đi bộ đội tại chiến trường K từ năm 1978 – 1982. Bản thân là Đảng Viên từng giữ nhiều chức vụ trong các cơ quan thuế, tài chính tỉnh Bình Dương. Tình trạng sức khỏe của ông Trang hiện nay rất kém, ông đang bị mắc bệnh viêm tiền liệt tuyến khi đang bị giam giữ. 

Không những thế, ông đang là người có trách nhiệm phải phụng dưỡng mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Danh, sinh năm 1931 hiện đã già yếu. Chúng tôi đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

5- Đề nghị của luật sư.

Chúng tôi đề nghị HĐXX xem xét toàn bộ nội dung vụ án một khách quan, toàn diện cùng những phân tích, đánh giá trên của chúng tôi để ra những phán quyết công tâm. Yêu cầu của chúng tôi cụ thể như sau:

1- Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b, c khoản 1 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 và khoản 2 Điều 298 BLTTHS 2015 xử bị cáo Lê Văn Trang theo Điều 179 “Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” khác với tội danh quy định tại Điều 219 mà VKSNDTC đang truy tố;

2- Đề nghị HĐXX áp dụng: khoản 4 Điều 17, Điều 38, Điều 58, điểm b, s, v khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 54,  giảm nhẹ thấp nhất khung hình phạt cho bị cáo Lê Văn Trang.

Chúng tôi tin tưởng rằng HĐXX sẽ ra một bản án công minh, đúng pháp luật!

Xin chân thành cảm ơn HĐXX đã lắng nghe!

Luật sư:  Đào Nguyễn Hương Duyên, Nguyễn Trung Tiệp.

 

 

Chia sẻ
CHƯƠNG TRÌNH TƯ VẤN PHÁP LUẬT MIỄN PHÍ Hướng tới kỷ niệm 78 năm ngày truyền thống Luật sư Việt Nam (10/10/1945-10/10/2023) và ngày Pháp luật Việt Nam 09/11, Công ty Luật TNHH Thuận Thiên thực hiện tư vấn, giải đáp mọi vướng mắc pháp lý cho khách hàng hoàn toàn miễn phí trong các lĩnh vực dân sự, hình sự, đất đai, hôn nhân và gia đình, lao động, doanh nghiệp... 1. Hình thức tư vấn: Trực tiếp hoặc online 2. Thời gian: 9h00-17h00 từ ngày 04/10 đến hết ngày 31/10/2023 3. Cách thức tư vấn: - Đối với hình thức tư vấn trực tiếp: Tư vấn tại địa chỉ Số 31, đường Nguyễn Xiển, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội; -Đối với hình thức tư vấn online: Tư vấn qua điện thoại, email, zalo, messenger,… Qúy khách vui lòng liên hệ, đặt lịch tư vấn trước qua SĐT: 0914.885.677 để được hỗ trợ tốt nhất. Trân trọng. Thông tin chi tiết tại website: (thuanthienlawfirm.com và luatthuanthien.com)https://luattthuanthien.com/wp-admin