Tội Giết Người Trong Trạng Thái Tinh Thần Bị Kích Động Mạnh Theo Quy Định BLHS Mới
1. Căn cứ vào pháp lý
– Bộ luật Hình sự hợp nhất số 01/VBHN-VPQH (Hợp nhất Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Bổ sung Luật số 12/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018)
– Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 05 năm 2018 quy định về hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo
– Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao ban hành.
2. Những yếu tố cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
3. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là gì?
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tường hợp giết người do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân thích của nạn nhân.
4. Các yếu tố cấu thành tội phạm
5. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự và chủ thể này đang trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây ra cho chính họ hoặc người thân thích của họ.
6. Khách thể của tội phạm
Hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh xâm phạm đến tính mạng của người khác một cách trái pháp luật.
Đối tượng của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là thân thể con người đang sống mà hành vi phạm tội tác động vào để xâm phạm đến quyền sổng của họ. Thời điểm được coi là sống của một người tính từ khi người đó được sinh ra, độc lập với cơ thể mẹ và chấm dứt khi có cái chết về mặt sinh học.
7. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp. Theo đó, người phạm tội nhận thức trước được hậu quả chết người có thể xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
8. Mặt khách quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi khi không thể kìm chế, làm chủ được bản thân trước hành vi trái pháp luật mà nạn nhân thực hiện đối với chính mình hoặc người thân thích của mình nên đã giết chết nạn nhân.
– Hành vi giết người được thực hiện thông qua những hành động như: đâm, chém, bắn, đánh,… Theo đó, tình trạng tinh thần bị kích động là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết người. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh.
– Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó tuy làm cho người phạm tội bị kích động mạnh, nhưng nói chung chưa đến mức là phạm tội. Nếu hành vi trái pháp luật đó trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội hoặc của xã hội, đã cấu thành tội phạm, thì hành vi chống trả lại gây chết người có thể được xem là trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Trong trường hợp cá biệt, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cấu thành tội phạm nhưng là tội phạm ít nghiêm trọng (như tội làm nhục người khác, tội vu khống) thì cũng được coi là giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh.
– Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của nạn nhân với tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội là mối quan hệ tất yếu và tương tác qua lại với nhau. Cụ thể, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là nguyên nhân dẫn tới trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. Do đó, nêu không có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân thì không có tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. Vì vậy, nếu người phạm tội không bị kích động bởi hành vi trái pháp luật của người khác thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
Ví dụ: A từng nhiều lần gây gỗ và dùng dao đâm B khiến B tử vong ngay tại chỗ. Lúc đó, C là bố của B nhìn thấy con mình chết nên đã không làm chủ, kìm chế hành vi của bản thân nên đã vác dao rượt chém A khiến A tử vong trên đường đi cấp cứu do mất nhiều máu. Trong trường hợp này, C rơi vào tình trạng tinh thần bị kích động mạnh khi chứng kiến con mình là B bị đâm chết nên đã chém chết A (nạn nhân-có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng).
Một số lưu ý:
1. Đối với trường hợp người dùng chất say (uống rượu) hoặc chất kích thích mạnh khác mà bị say, có hành vi trái pháp luật không nghiêm trọng của nạn nhân mà thực hiện hành vi giết người, thì không coi là trường hợp phạm tội do bị kích động mạnh. Phải tùy theo hoàn cảnh, tính chất và mức độ sai trái của hành vi do nạn nhân thực hiện cũng như các tình tiết khác của vụ án, mà xử lý về tội giết người.
2. Để có thể xác định tinh thần của người phạm tội có bị kích động mạnh hay không và để phân biệt giữa “kích động” với “kích động mạnh”, cần xem xét một cách khác quan, toàn diện các mặt: thời gian, hoàn cảnh, địa điểm, diễn biến, nguyên nhân sâu xa và trực tiếp của sự việc; mối quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội, trình độ văn hóa, chính trị, tính tình, cá tính của mỗi bên: mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân với tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội.
3. Những người thân thích là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân như: vợ đối với chồng; cha mẹ với con cái; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ đối với nhau; ông bà nội goại đối với các cháu,…
4. Hành vi phạm tội không có giai đoạn chuẩn bị hoặc chưa đạt. Vì vậy, chỉ có thể định tội này khi có hậu quả chết người xảy ra. Hay nói cách khác hậu quả chết người là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm này.
III. Mức phạt trách nhiệm hình sự đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
1. Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm
Người phạm tội giết từ 02 người trở lên trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Để xác định là trường hợp người phạm tội giết từ 02 người trở lên trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì hành vi trái pháp luật của các nạn nhân phải có mối quan hệ nhân quả với tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của người pham tội. Cụ thể, nếu trong số những nạn nhân đó chỉ có một nạn nhân có hành vi trái pháp luật khiến người phạm tội bị kích động mạnh, còn những nạn nhân khác không có hành vi trái pháp luật mà người phạm tội vẫn giết thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội giết người.
Ví dụ: A từng nhiều lần gây gỗ và dùng dao đâm B khiến B tử vong ngay tại chỗ. Lúc đó, C là bố của B nhìn thấy con mình chết nên đã không làm chủ, kìm chế hành vi của bản thân nên đã vác dao rượt chém A khiến A tử vong trên đường đi cấp cứu do mất nhiều máu. Sau đó, C nhìn thấy mẹ A là bà D đang ngồi trong nhà liền vào chém luôn D khiến D tử vong. Trong trường hợp này, chỉ có A là nạn nhân có hành vi trái pháp luật (đâm chết B) khiến C bị kích động mạnh nên mới chém chết A. Còn nạn nhân D không thực hiện hành vi trái pháp luật nào nhưng vẫn bị C chém chết. Do đó, trong trường hợp này ngoài việc D bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì còn phải chịu trách nhiệm hình sự thêm về tội giết người.
1. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có xin án treo được không?
2. Án treo là gì?
Án treo là biện pháp “miễn chấp hành” hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội “bị phạt tù không quá 03 năm”, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. (Điều 1 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 05 năm 2018 quy định về hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo).
- Điều kiện hưởng án treo
Để được hưởng án treo đối với “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” người phạm tội phải đáp ứng các điều kiện sau đây: (Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP)
Thứ nhất, người phạm tội này có thời gian bị xử phạt tù là không quá 03 năm. Điều này đồng nghĩa các trường hợp có thời gian bị xử phạt tù từ 03 năm trở lên sẽ không đủ điều kiện để được xét án treo.
Thứ hai, người phạm tội có nhân thân tốt. Cụ thể:
– Có nhân thân tốt là nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
– Trưòng hợp người phạm tội này đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
Thứ ba, người phạm tội có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự hiện hành và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự hiện hành.
Thứ tư, người phạm tội phải có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
Thứ năm, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
=> Như vậy, người phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể được hưởng án treo nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên.
Một số lưu ý về điều kiện được hưởng án treo “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”
1. Án treo là trường hợp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện chứ không phải là một loại hình phạt.
2. Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
3. Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
4. Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
5. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng